Luật Trưng Cầu Dân Ý Ở Việt Nam

Luật Trưng Cầu Dân Ý Ở Việt Nam

Ngày 16/3, nước Cộng hòa tự trị Crimea (Crưm) thuộc Ukraine tiến hành trưng cầu ý dân về việc sáp nhập vào Liên bang Nga với tư cách là một chủ thể. Các điểm bỏ phiếu được mở cửa từ 8 giờ (giờ địa phương, 10 giờ Moskva, 13 giờ Hà Nội) đến 20 giờ ngày 16/3.    Các hoạt động chuẩn bị vào phút chót trước giờ bỏ phiếu trưng cầu dân ý ở Crưm.Những người tham gia cuộc trưng cầu ý dân sẽ trả lời 2 câu hỏi: 1. Bạn có tán thành việc Crimea sáp nhập vào Nga với tư cách là một chủ thể của Nga hay không? 2. Bạn có ủng hộ việc khôi phục Hiến pháp năm 1992 và duy trì quy chế Crimea trong thành phần Ukraine hay không?

Ngày 16/3, nước Cộng hòa tự trị Crimea (Crưm) thuộc Ukraine tiến hành trưng cầu ý dân về việc sáp nhập vào Liên bang Nga với tư cách là một chủ thể. Các điểm bỏ phiếu được mở cửa từ 8 giờ (giờ địa phương, 10 giờ Moskva, 13 giờ Hà Nội) đến 20 giờ ngày 16/3.    Các hoạt động chuẩn bị vào phút chót trước giờ bỏ phiếu trưng cầu dân ý ở Crưm.Những người tham gia cuộc trưng cầu ý dân sẽ trả lời 2 câu hỏi: 1. Bạn có tán thành việc Crimea sáp nhập vào Nga với tư cách là một chủ thể của Nga hay không? 2. Bạn có ủng hộ việc khôi phục Hiến pháp năm 1992 và duy trì quy chế Crimea trong thành phần Ukraine hay không?

Mẫu Biểu trưng Kỷ niệm 80 năm Ngày thành lập QĐND Việt Nam

Theo phóng viên TTXVN tại Seoul, cơ quan chức năng cho biết 38 trong số 80 người Việt Nam đến Jeju từ Nha Trang, Việt Nam, trên chuyến bay vào ngày 14/11 đã không lên chuyến bay về nước.

Giới chức Hàn Quốc đang trích xuất hình ảnh từ hệ thống CCTV để tìm tung tích nhóm 38 du khách Việt Nam nói trên sau khi những người này cắt liên lạc và biến mất tại điểm tham quan cuối cùng theo lịch trình ngày 17/11. Những người này sẽ bị coi là cư trú bất hợp pháp sau ngày 14/12, thời hạn lưu trú miễn thị thực 30 ngày kết thúc.

Nhằm thúc đẩy phát triển du lịch, chính quyền đảo Jeju đã vận hành chương trình miễn visa, cho phép người nước ngoài từ 64 quốc gia, trong đó có Việt Nam, lưu trú tại đảo Jeju tối đa 30 ngày mà không cần visa.

Trả lời câu hỏi của phóng viên TTXVN, Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc cho biết Đại sứ quán đã nhận được thông tin qua báo chí về vụ việc 38 công dân Việt Nam chưa xuất cảnh Hàn Quốc theo chuyến bay dự kiến và khẩn trương báo cáo Bộ Ngoại giao và các cơ quan chức năng. Hiện nay, Đại sứ quán đang phối hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của Hàn Quốc, theo dõi sát sao vụ việc và sẵn sàng hợp tác với các cơ quan trên tinh thần đối tác chiến lược Việt - Hàn.

Nhân dịp này, Đại sứ quán cũng đã yêu cầu công dân Việt Nam khi nhập cảnh Hàn Quốc tuyệt đối tôn trọng luật pháp, tục lệ và đặc biệt là các quy định về xuất nhập cảnh Hàn Quốc, tránh làm ảnh hưởng tới hình ảnh của Việt Nam và quan hệ đang phát triển tốt đẹp giữa hai nước.

Trong đời sống xã hội, pháp luật có vai trò đặc biệt quan trọng, vừa là công cụ quản lý Nhà nước hữu hiệu, vừa tạo hành lang pháp lý an toàn, tin cậy, thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội.

Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật

Với tầm quan trọng của pháp luật trong đời sống xã hội, Ngày 20/6/2012, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII đã thông qua Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật. Luật này chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2013. Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật ra đời đã quy định và khẳng định hơn nữa quyền được thông tin về pháp luật và trách nhiệm tìm hiểu, học tập pháp luật của công dân; nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền và các điều kiện bảo đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật.

Tại Điều 8 của Luật quy định: Ngày 09/11 hàng năm là Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Mục đích của ngày này là nhằm tôn vinh Hiến pháp, pháp luật, giáo dục ý thức thượng tôn pháp luật cho mọi người trong xã hội. Ngày Pháp luật với dấu mốc là ngày ban hành bản Hiến pháp đầu tiên năm 1946. Đây là bản Hiến pháp của nền dân chủ đầu tiên của Nhà nước ta, thể hiện triệt để tinh thần, tư tưởng của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân.

Ngày Pháp luật có ý nghĩa giáo dục sâu sắc trong việc đề cao giá trị của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền, hướng mọi tổ chức, cá nhân tính tích cực tham gia với hành vi, thái độ xử sự pháp luật đúng đắn, đề cao quyền cũng như trách nhiệm, nghĩa vụ của công dân trong học tập, tìm hiểu pháp luật và tự giác chấp hành pháp luật. Qua đó, góp phần nâng cao ý thức và niềm tin pháp luật, từng bước xây dựng và củng cố các giá trị văn hóa pháp lý trong cuộc sống xã hội. Đồng thời, đây còn là mô hình để vận động, khuyến khích, kêu gọi toàn thể nhân dân chung sức, đồng lòng vì sự nghiệp xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN, phát huy triệt để tinh thần đại đoàn kết toàn dân tộc, tích cực hành động vì một Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngày pháp luật Việt Nam 09/11/2023 tiếp tục là điểm nhấn cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, tạo bước chuyển để xã hội tiếp nhận và áp dụng pháp luật như một thói quen, một phần tất yếu trong hoạt động hàng ngày, góp phần xây dựng ý thức chấp hành pháp luật trong cán bộ, nhân dân "Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật".

Ngày 09/11/1946, bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được ban hành. Sau Hiến pháp năm 1946, nước ta đã có thêm 4 Hiến pháp (1959, 1980, 1992, 2013), những giá trị dân chủ, quyền con người, quyền công dân, tư tưởng và mô hình tổ chức nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 1946 luôn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt tất cả các Hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật của nước ta.

Với mục đích, ý nghĩa quan trọng của Ngày Pháp luật là để nhân dân thể hiện tinh thần tôn vinh các giá trị, vai trò đặc biệt quan trọng của Hiến pháp, pháp luật trong cuộc sống và trong sự phát triển của quốc gia, sự hưng thịnh của dân tộc. Đồng thời làm cho tinh thần thượng tôn pháp luật thực sự thấm sâu vào ý thức, hành vi, hoạt động của mọi giai tầng, của cơ quan, tổ chức và của toàn xã hội.

Sống và làm việc theo pháp luật là việc làm thiết thực hưởng ứng Ngày Pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 09/11.

Chế định hợp đồng trong Luật dân sự Việt Nam là tập hợp các quy phạm pháp luật dân sự quy định về hợp đồng. Đây là một chế định quan trọng, trung tâm trong Luật dân sự Việt Nam.

Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân như mỗi tổ chức phải tham gia nhiều mối quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng. qua tất yếu đối với mọi đời sống xã hội. Tuy nhiên, việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài sản (vốn là hiện thân của các lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến với nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của các chủ thể.

Như vậy, cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thỏa thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên, hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật (chỉ được pháp luật công nhận và bảo vệ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thỏa thuận để thiết lập hợp đồng nhưng sự "tự do" ấy phải được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và trật tự công cộng. Nếu để các bên tự do vô hạn thì hợp đồng dân sẽ trở thành phương tiện để kẻ giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào các "quan hệ pháp luật tư", các việc dân sự... không được bỏ qua một khả năng tối thiểu nào để mở rộng sự can thiệp của nhà nước vào những "quan hệ dân luật".

Trong pháp luật của các nước phát triển phương Tây (còn gọi là các nước tư sản), chế định hợp đồng được coi là một chế định hoàn thiện và ít mang dấu ấn chính trị nhất. Trong chế định này, tự do hợp đồng được khẳng định như một nguyên tắc chủ yếu trong các giao dịch dân sự, thương mại, toàn bộ chế định hợp đồng được xây dựng trên nền tảng của tự do, bình đẳng. Có thể nói đó là chế định pháp luật có tính nhất thể hóa cao trong pháp luật tư sản[1]. Trong hệ thống pháp luật của các nước Xã hội chủ nghĩa, chế định hợp đồng cũng là một chế định cơ bản bên cạnh các chế định quyền sở hữu, quyền thừa kế[2].

Ở Việt Nam, các bộ cổ luật đã từng tồn tại trước đây như Luật Hồng Đức, Bộ luật Gia Long không có quy định riêng về hợp đồng mặc dù trong thực tế hình thành rất nhiều quan hệ hợp đồng giữa các chủ thể với nhau. Qua quá trình phát triển, cùng với sự phát triển của pháp luật dân sự nói chung, chế định về hợp đồng ngày càng được xem là một chế định có vai trò trung tâm, cơ bản trong pháp luật dân sự.

Cùng với sự phát triển chung của xã hội, các thành phần kinh tế ngày một đa dạng và phong phú làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi theo. Hợp đồng thương mại trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích kinh doanh trên nguyên tắc các chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhau càng làm mờ nhạt ranh giới giữa nó với hợp đồng dân sự. Có những quy định của pháp luật là cơ sở pháp lý để áp dụng chung cho cả hai loại hợp đồng này mặc, dù chúng thuộc đối tượng điều chỉnh của 2 ngành luật khác nhau.

Tuy nhiên, yêu cầu của quá trình tiến hành tố tụng trong việc giải quyết các tranh chấp từ hợp đồng, đòi hỏi cần phải có sự phân biệt rạch ròi giữa một hợp đồng thương mại với một hợp đồng dân sự. Có thể nói rằng hợp đồng thương mại và hợp đồng dân sự như một cặp song sinh. Vì vậy, trong thực tế có rất nhiều hợp đồng không thể phân biệt được là hợp đồng thương mại hay hợp đồng dân sự. Để có thể phân biệt được hai loại hợp đồng này phải xác định được cụ thể mục đích của từng loại hợp đồng. Nếu các bên chủ thể (hoặc ít nhất có một bên) tham gia hợp đồng với mục đích thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng thì hợp đồng đó được xác định là hợp đồng dân sự. Vì vậy, chỉ được coi là hợp đồng thương mại khi các bên chủ thể tham gia đều nhằm mục đích kinh doanh. Tuy nhiên mục đích tham gia cũng chỉ là một cơ sở mang tính tương trong việc phân biệt giữa hai loại hợp đồng vì rằng có những hợp đồng cả hai bên đều mang mục đích kinh doanh nhưng dói không thể coi đó là hợp đồng thương mại được nếu có một bên chủ thể là cá nhân không có đăng ký kinh doanh.

Dưới đây là những nội dung cơ bản về hợp đồng trong chế định này.

hợp đồng là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định. Dưới góc độ pháp lý thì "hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự"[3]. Hợp đồng là một bộ phận các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau.

Cần phân biệt thuật ngữ hợp đồng với thuật ngữ pháp luật về hợp đồng. Đây là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng theo nghĩa chủ quan là quan hệ xã hội được hình thành từ sự thỏa thuận của các bên để để thỏa mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng (nghĩa khách quan) là sự thừa nhận và là yêu cầu của Nhà nước đối với các giao lưu dân sự đó.

Tính thỏa thuận: hợp đồng trước hết phải là một thỏa thuận có nghĩa là hợp đồng phải chứa đựng yếu tố tự nguyện khi giao kết nó phải có sự trùng hợp ý chí của các bên. Việc giao kết hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng, tự do giao kết hợp đồng, nhưng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Yếu tố thỏa thuận đã bao hàm trong nó yếu tố tự nguyện, tự định đoạt và sự thống nhất về mặt ý chí. Đây là yếu tố quan trọng nhất tạo nên sự đặc trưng của hợp đồng so với các giao dịch dân sự khác, đây cũng là yếu tố làm nên bản chất của Luật dân sự so với các ngành luật khác.

Thỏa thuận theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: Đi tới sự đồng ý sau khi cân nhắc, thảo luận. được thể hiện ở chỗ không có một ý kiến đối lập của bất cứ một bộ phận nào trong số các bên liên quan đối với những vấn đề quan trọng và thể hiện thông qua một quá trình mà mọi quan điểm của các bên liên quan đều phải được xem xét và dung hoà được tất cả các tranh chấp; là việc các bên (cá nhân hay tổ chức) có ý định chung tự nguyện cùng nhau thực hiện những nghĩa vụ mà họ đã cùng nhau chấp nhận vì lợi ích của các bên. Sự đồng tình tự nguyện này có thể chỉ được tuyên bố miệng và được gọi là thỏa thuận quân tử (hợp đồng quân tử) hay được viết thành văn bản gọi là hợp đồng viết hay hợp đồng thành văn. Tùy theo từng trường hợp được gọi là hợp đồng hay hiệp định (VD: hiệp định mua bán, hợp đồng đại lý).

Về chủ thể tham gia hợp đồng: Chủ thể giao kết, thực hiện hợp đồng phải có ít nhất từ hai bên trở lên, vì hợp đồng là một giao dịch pháp lý song phương hay đa phương. Các chủ thể khi giao kết, thực hiện hợp đồng đều phải có tư cách chủ thể tức là phải đáp ứng các điều kiện theo quy định của pháp luật đối với một chủ thể của quan hệ dân sự (VD: Nếu chủ thể là cá nhân thì phải đáp ứng được các yêu cầu về năng lực pháp luật, năng lực hành vi dân sự...);

Mục đích hướng tới của các bên khi tham gia hợp đồng là để xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Quyền và nghĩa vụ dân sự trong hợp đồng có phạm vi rất rộng, trước đây trong Pháp lệnh hợp đồng ngày 29/4/1991 (Điều 1) quy định hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập, thay đổi hay chấm dứt các quyền và nghĩa vụ của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng, cho tài sản, làm một hoặc không làm công việc, dịch vụ hoặc các thỏa thuận khác mà trong đó một hoặc các bên nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.

Theo quy định của pháp luật hiện hành thì không liệt kê cụ thể các quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể đó tuy nhiên về bản chất thì các quyền và nghĩa vụ mà các bên hướng tới khi giao kết, thực hiện hợp đồng là những quyền và nghĩa vụ để đáp ứng, thỏa mãn nhu cầu trong sinh hoạt, tiêu dùng, đó cũng chính là một trong những đặc điểm cơ bản để phân biệt giữa hợp đồng và các hợp đồng kinh tế, thương mại. Yếu tố này giúp phân biệt hợp đồng với hợp đồng kinh tế:

Hình thức của hợp đồng là cách thức biểu hiện ra bên ngoài của những nội dung của nó dưới một dạng vật chất hữu hình nhất định. Theo đó, những điều khoản mà các bên đã cam kết thỏa thuận phải được thể hiện ra bên ngoài dưới một hình thức nhất định, hay nói cách khác hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định. Tùy thuộc vào nội dung và tính chất của từng hợp đồng cũng như tùy thuộc vào uy tín, độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn một hình thức nhất định trong việc giao kết hợp đồng tùy từng trường hợp cụ thể.

Bộ luật Dân sự năm 2015 không quy định về "hình thức của hợp đồng", do đó ta áp dụng quy định tại Điều 119 về hình thức của giao dịch dân sự (do bản thân hợp đồng cũng là một giao dịch dân sự):

Từ quy định trên có thể thấy hình thức của hợp đồng rất đa dạng, phong phú,[4] tựu trung lại thì hình thức của hợp đồng có mấy dạng sau đây:

Cần lưu ý là đối với những hợp đồng mà pháp luật bắt buộc phải giao kết theo một hình thức nhất định (thông thường là hình thức văn bản có công chứng, chứng thực) thì các bên phải tuân theo những hình thức đó, ngoài ra thì các bên có thể tự do lựa chọn một trong các hình thức nói trên để giao kết, tuy nhiên đối với những hợp đồng mà pháp luật không yêu cầu phải lập theo hình thức văn bản có công chứng nhưng để quyền lợi của mình được bảo đảm thì các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng.

1. Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán[5].

2. Hợp đồng trao đổi tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó các bên giao tài sản và chuyển quyền sở hữu đối với tài sản cho nhau[6].

3. Hợp đồng tặng cho tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên tặng cho giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận[7].

4. Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định[8].

Hợp đồng thuê tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuê phải trả tiền thuê[9].

Hợp đồng thuê khoán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho thuê khoán giao tài sản cho bên thuê khoán để khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản thuê khoán và bên thuê khoán có nghĩa vụ trả tiền thuê[10].

6. Hợp đồng mượn tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho mượn giao tài sản cho bên mượn để sử dụng trong một thời hạn mà không phải trả tiền, bên mượn phải trả lại tài sản đó khi hết thời hạn mượn hoặc mục đích mượn đã đạt được[11].

7. Hợp đồng về quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó người sử dụng đất chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp, góp vốn quyền sử dụng đất hoặc thực hiện quyền khác theo quy định của Luật đất đai cho bên kia; bên kia thực hiện quyền, nghĩa vụ theo hợp đồng với người sử dụng đất[12].

8. Hợp đồng hợp tác là sự thỏa thuận giữa các cá nhân, pháp nhân về việc cùng đóng góp tài sản, công sức để thực hiện công việc nhất định, cùng hưởng lợi và cùng chịu trách nhiệm[13].

9. Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ[14].

10.1. Hợp đồng vận chuyển hành khách là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển chuyên chở hành khách, hành lý đến địa điểm đã định theo thỏa thuận, hành khách phải thanh toán cước phí vận chuyển[15].

10.2. Hợp đồng vận chuyển tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên vận chuyển có nghĩa vụ chuyển tài sản đến địa điểm đã định theo thỏa thuận và giao tài sản đó cho người có quyền nhận, bên thuê vận chuyển có nghĩa vụ trả cước phí vận chuyển[16].

11. Hợp đồng gia công là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên nhận gia công thực hiện công việc để tạo ra sản phẩm theo yêu cầu của bên đặt gia công, bên đặt gia công nhận sản phẩm và trả tiền công[17].

12. Hợp đồng gửi giữ tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên giữ nhận tài sản của bên gửi để bảo quản và trả lại chính tài sản đó cho bên gửi khi hết thời hạn hợp đồng, bên gửi phải trả tiền công cho bên giữ, trừ trường hợp gửi giữ không phải trả tiền công[18].

13. Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định[19].

Xem chi tiết quy định về các loại hợp đồng thông dụng từ Điều 430 đến Điều 569 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Nội dung cơ bản của hợp đồng là tổng hợp những điều khoản mà các chủ thể tham gia hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác định những quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng. Đây cũng chính là điều khoản cần phải có trong một hợp đồng. Ví dụ: Điều 402 Bộ luật dân sự 2005 quy định về nội dung của hợp đồng như sau: "Các bên trong hợp đồng có quyền thỏa thuận về nội dung trong hợp đồng. Hợp đồng có thể có các nội dung sau đây:

Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà trong hợp đồng này các bên không cần phải thỏa thuận nhưng trong một hợp đồng khác các bên buộc phải thỏa thuận thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác, ngoài những nội dung cụ thể này các bên còn có thể thỏa thuận xác định với nhau thêm một số nội dung khác. Vì vậy có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thành ba loại sau đây:

1. Điều khoản cơ bản: Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của hợp đồng. Đó là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không thỏa thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quy định. Tùy theo từng loại hợp đồng mà điều khoản cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm,... Có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thỏa thuận thì nó sẽ không thể hình thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần phải thỏa thuận được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng thì những điều khoản này cũng là điều khoản cơ bản của hợp đồng sẽ giao kết.

2. Điều khoản thông thường: Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng. Để giảm bớt những công việc không cần thiết trong giao kết hợp đồng, các bên có thể không cần thỏa thuận và không cần ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã quy định nhưng các bên vẫn phải thực hiện những điều khoản đó. Vì vậy, nếu có tranh chấp về những nội dung này thì quy định của pháp luật sẽ là căn cứ để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. VD: Địa điểm giao tài sản (đối tượng của hợp đồng mua bán) là tại nơi cư trú của người mua nếu người mua đã trả tiền và trong hợp đồng các bên không thỏa thuận về địa điểm giao tài sản.

Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng, các bên còn có thể thỏa thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các điều khoản này được gọi là điều khoản tùy nghi.

Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng sao cho thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.

Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều khoản cơ bản, điều khoản thông thường nhưng cũng có thể là điều khoản tùy nghi. Chẳng hạn, địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản sẽ là điều khoản cơ bản, nếu khi giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về nơi giao vật; ngược lại, nó sẽ là điều khoản thông thường nếu các bên không thỏa thuận mà mặc nhiên thừa nhận và thực hiện theo quy định của pháp luật. Mặt khác, địa điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu các bên đã thỏa thuận cho phép bên có nghĩa vụ được lựa chọn một trong nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ giao vật.

Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta còn có thể phân loại chúng thành 2 loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác pháp luật. Ngoài ra trong hợp đồng còn có thể có phụ lục của hợp đồng. Điều 403 Bộ Luật dân sự hiện hành quy định về phụ lục hợp đồng như sau:

Có nhiều cách thức để phân loại một hợp đồng tùy theo các tiêu chí khác nhau. Pháp luật Việt Nam hiện hành đã phân chia các loại hợp đồng chủ yếu theo Điều 402 Bộ luật Dân sự năm 2015 như sau:

Ngoài ra còn có thể có hợp đồng theo mẫu "là hợp đồng gồm những điều khoản do một bên đưa ra theo mẫu để bên kia trả lời trong một thời gian hợp lý; nếu bên được đề nghị trả lời chấp nhận thì coi như chấp nhận toàn bộ nội dung hợp đồng theo mẫu mà bên đề nghị đã đưa ra"[20].

Bộ luật Dân sự cũng quy định các loại hợp đồng thông dụng sau đây: hợp đồng mua bán tài sản (phổ biến là hợp đồng mua bán nhà), hợp đồng trao đổi tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng vay tài sản, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng dịch vụ, hợp đồng vận chuyển, hợp đồng gia công, hợp đồng gửi giữ tài sản, hợp đồng bảo hiểm, hợp đồng ủy quyền, hứa thưởng và thi có giải.

Dưới góc độ khoa học pháp lý và trên thực tế hợp đồng rất đa dạng và phong phú và có nhiều cách phân loại khác nhau theo từng tiêu chí nhất định:

Về nguyên tắc hợp đồng có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Tuy nhiên thời điểm có hiệu lực của hợp đồng còn được xác định theo sự thỏa thuận hoặc theo sự quy định của pháp luật. Vì vậy hợp đồng được coi là có hiệu lực vào một trong các thời điểm sau đây:

Việc xác định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng có ý nghĩa rất quan trọng, xác định được thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là xác định được thời điểm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên với nhau, và đặc biệt là khi giải quyết các tranh chấp về tài sản trong hợp đồng mà quy ra thành tiền thì xác định giá trị của tài sản đó theo thời giá thị trường tại thời điểm hợp đồng có hiệu lực. Đồng thời hiệu lực của hợp đồng cũng là một trong những căn cứ để xem xét về tính hợp lệ và thời hiệu khởi kiện trong vụ án dân sự (ví dụ: khi hợp đồng được giao kết nhưng chưa có hiệu lực thì các tranh chấp nếu có sẽ không được Tòa án thụ lý giải quyết tại thời điểm đó).

Để một hợp đồng có hiệu lực thì bản thân hợp đồng đó phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của một hợp đồng, các điều kiện đó tùy theo tính chất, đặc điểm của các hợp đồng mà sẽ có sự khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại thì có ba điều kiện cơ bản để một hợp đồng khi đáp ứng các điều kiện đó sẽ có hiệu lực theo luật định là điều kiện về mặt chủ thể; điều kiện về mặt nội dung và điều kiện về mặt hình thức.

Giao kết hợp đồng là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và nghĩa vụ dân sự.

Nhằm tạo điều kiện cho các chủ thể thỏa mãn được các nhu cầu về đời sống vật chất cũng như tinh thần, BLDS cho phép mọi chủ thể được quyền "tự do giao kết hợp đồng". Theo nguyên tắc nay, mọi cá nhân và tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham giao kết bất kỳ một hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng đã được pháp luật cụ thể cũng như những hợp đồng khác dù rằng pháp luật chưa quy định. Tuy nhiên, sự tự do ý chí phải nằm trong một khuôn khổ nhất định. Bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Nằm trong mối liên hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi một chủ thể vừa có quyền "tự do giao kết hợp đồng" vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích của cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là "sự giới hạn" ý chí tự do của mỗi một chủ thể trong việc giao kết hợp đồng nói riêng, cũng như đối với mọi hành vi nói chung của họ.

Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép các nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng dân sự thành phương tiện bóc lột.

Nguyên tắc này thể hiện bản chất của quan hệ dân sự. Quy luật giá trị đòi hỏi các bên khi thiết lập các quan hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau. Không một ai được lấy lý do khác biệt về thành phần xã hội, dân tộc, giới tính, tôn giáo, hoàn cảnh kinh tế,... để làm biến động các quan hệ dân sự. Mặt khác, chỉ khi nào các bên bình đẳng với nhau về mọi phương diện trong giao kết hợp đồng thì ý chí tự nguyện của các bên mới thực sự được bảo đảm. Vì vậy, theo nguyên tắc trên, những hợp đồng được giao kết thiếu bình đẳng và không có sự tự nguyện của các bên sẽ không được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đánh giá một hợp đồng có phải là ý chí tự nguyện của các bên hay không là một công việc tương đối phức tạp và khó khăn trong thực tế.

Hợp đồng là sự thỏa thuận thống nhất ý chí của các chủ thể tham gia. Vì thế, muốn xem xét các chủ thể có tự nguyện trong giao kết hợp đồng hay không, cần phải dựa vào sự thống nhất biện chứng giữa 2 phạm trù: ý chí và sự bày tỏ ý chí. Như chúng ta đã biết, ý chí là mong muốn chủ quan bên trong của mỗi một chủ thể. Nó phải được bày tỏ ra bên ngoài thông qua một hình thức nhất định. Ý chí và sự bày tỏ ý chí là hai mặt của một vấn đề, chúng luôn có quan hệ mật thiết, gắn bó khăng khít với nhau.

Ý chí tự nguyện chính là sự thống nhất giữa ý muốn chủ quan bên trong và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài. Vì vậy, để xác định một hợp đồng dân sự có tuân theo nguyên tắc tự nguyện hay không cần phải dựa vào sự thống nhất ý chí của người giao kết hợp đồng và sự thể hiện (bày tỏ) ý chí đó trong nội dung của hợp đổng mà người đó đã giao kết. Chỉ khi nào hợp đồng là hình thức phản ánh một cách khách quan, trung thực những mong muốn bên trong của các bên giao kết thì việc giao kết đó mới được coi là tự nguyện.

Như vậy, tất cả hợp đồng được giao kết do bị nhầm lẫn, do bị lừa dối hoặc bị đe dọa đều là những hợp đồng không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện khi giao kết. Và vì thế, nó sẽ bị coi là vô hiệu[22].

Trình tự giao kết hợp đồng là quá trình mà trong đó các bên chủ thể bày tỏ ý chí với nhau bằng cách trao đổi ý kiến để đi đến thỏa thuận trong việc cùng nhau làm xác lập những quyền và nghĩa vụ dân sự đối với nhau. Thực chất, đó là quá trình mà hai bên "mặc cả" về những điều khoản trong nội dung của hợp đồng. Quá trình này diễn ra thông qua 2 giai đoạn:

Khi một người muốn thiết lập một hợp đồng thì ý muốn đó phải thể hiện ra bên ngoài thông qua một hành vi nhất định. Chỉ có như vậy phía đối tác mới có thể nhận biết được ý muốn của họ và từ đó mới có thể đi đến việc giao kết hợp đồng. Đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên biểu lộ ý chí mình trước người khác bằng cách bày tỏ cho phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết với người đó một hợp đồng dân sự.

Để người mà mình muốn giao kết hợp đồng với họ có thể hình dung được hợp đồng đó như thế nào, người đề nghị phải đưa ra những điều khoản của hợp đồng một cách cụ thể và rõ ràng. Việc đề nghị giao kết hợp đồng được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Người đề nghị có thể trực tiếp (đối mặt) với người được đề nghị để trao đổi, thỏa thuận hoặc có thể thông qua điện thoại, tin nhắn,... Trong những trường hợp này, thời hạn trả lời là một khoảng thời gian do hai bên thỏa thuận ấn định. Ngoài ra, đề nghị giao kết còn có thể được thực hiện bằng việc chuyển công văn, giấy tờ qua đường bưu điện. Trong những trường hợp này, thời hạn trả lời là khoảng thời gian bên đề nghị ấn định.

Để bảo đảm quyền lợi cho người được đề nghị, Điều 386 BLDS năm 2015 quy định: "Trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh".

Như vậy, lời đề nghị mặc dù chưa phải là một hợp đồng nhưng ít nhiều đã có tính chất ràng buộc đối với người đề nghị. Tuy nhiên, bên đề nghị vẫn có thể thay đổi hoặc rút lại đề nghị trong các trường hợp sau:

– Bên được đề nghị chưa nhận được đề nghị.

– Bên đề nghị có nêu rõ điều kiện được thay đổi hoặc rút lại đề nghị và điều kiện đó đã đến.

Ngoài ra, đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt khi bên nhận được đề nghị trả lời không chấp nhận hoặc chậm trả lời chấp nhận.

Là việc bên được đề nghị nhận lời đề nghị và đồng ý tiến hành việc giao kết hợp đồng với người đã đề nghị. Về nguyên tắc, bên được đề nghị phải trả lời ngay về việc có chấp nhận giao kết hợp đồng hay không. Trong những trường hợp cần phải có thời gian để bên được đề nghị cân nhắc, suy nghĩ mà các bên đã ấn định thời hạn trả lời thì bên được đề nghị phải trả lời trong thời hạn đó. Nếu sau thời hạn nói trên, bên được đề nghị mới trả lời về việc chấp nhận giao kết hợp đồng thì lời chấp nhận đó được coi như một lời đề nghị mới của bên chậm trả lời.

Nếu việc trả lời được chuyển qua bưu điện thì ngày gửi đi theo dấu của bưu điện được coi là thời điểm trả lời. Căn cứ vào thời điểm đó để bên đã đề nghị xác định việc trả lời có chậm hay không so với thời hạn đã ấn định.

Người được đề nghị có thể chấp nhận toàn bộ nội dung đề nghị, cũng có thể chỉ chấp nhận một phần trong nội dung đó hoặc có thể chỉ chấp nhận việc giao kết hợp đồng nhưng không đồng ý với nội dung mà bên đề nghị đã đưa ra. Nghĩa là trong những trường hợp này, người được đề nghị muốn sửa đổi hoặc thay đổi nội dung mà người đề nghị đã đưa ra. Vì vậy, họ sẽ trở thành người đề nghị mới và người đã đề nghị trước đó lại trở thành người được đề nghị. Người đề nghị mới cũng chịu sự ràng buộc với những nội dung đã đề nghị. Sự hoán vị này có thể xảy ra nhiều lần cho đến khi nào các bên thống nhất thỏa thuận được với nhau toàn bộ nội dung của hợp đồng thì sẽ đi đến chính thức giao kết hợp đồng.

Địa điểm giao kết hợp đồng[23]: Địa điểm giao kết hợp đồng do các bên thỏa thuận; nếu không có thỏa thuận thì địa điểm giao kết hợp đồng là nơi cư trú của cá nhân hoặc trụ sở của pháp nhân đã đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng.

Thời điểm giao kết hợp đồng[24]:

Thực hiện hợp đồng là việc các bên tiến hành các hành vi mà mỗi bên tham gia hợp đồng phải thực hiện nhằm đáp ứng những quyền dân sự tương ứng của bên kia. Nguyên tắc thực hiện hợp đồng, các bên phải tuân theo các nguyên tắc như thực hiện đúng hợp đồng, đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác. Thực hiện một cách trung thực, theo tinh thần hợp tác và có lợi nhất cho các bên, bảo đảm tin cậy lẫn nhau. Không được xâm phạm đến công cộng, lợi ích hợp pháp của người khác.

Khi thực hiện hợp đồng ngoài việc tuân thủ các quy tắc đã được quy định thì việc thực hiện hợp đồng còn phải tuân thủ theo những quy tắc nhất định đối với từng loại hợp đồng cụ thể như sau:

Sửa đổi hợp đồng là việc các bên đã tham gia giao kết hợp đồng bằng ý chí tự nguyện của mình thỏa thuận với nhau để phủ nhận (làm thay đổi) một số điều khoản trong nội dung của hợp đồng đã giao kết. Sau khi hợp đồng đã được sửa đổi, các bên thực hiện hợp đồng theo những phần không bị sửa đổi trong nội dung của hợp đồng trước đó cùng với những nội dung mới được sửa đổi đồng thời cùng nhau giải quyết những hậu quả khác của việc sửa đổi hợp đồng. Điều 421 Bộ luật Dân sự quy định về việc sửa đổi hợp đồng như sau:

Theo Điều 422 Bộ luật Dân sự, hợp đồng chấm dứt khi:

Theo Điều 423 Bộ luật Dân sự về hủy bỏ hợp đồng:

Xem thêm các trường hợp hủy bỏ hợp đồng từ Điều 424 đến Điều 428.

Thời hiệu khởi kiện về hợp đồng: Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm.

Tròn 30 năm trước, ngày 17-3-1991, Liên Xô tổ chức bỏ phiếu toàn dân về việc duy trì nhà nước Xô viết. Nhưng ít ai biết rằng cuộc trưng cầu dân ý này đã quyết định vận mệnh của Liên Xô, dẫn đến sự sụp đổ của một cường quốc trong lịch sử thế giới hiện đại.

Tổng thống đầu tiên và duy nhất của Liên Xô, Mikhail Gorbachev, bỏ phiếu trong cuộc trưng cầu dân ý ngày 17-3-1991. Ảnh tư liệu: ТАSS

Thông qua tuyên bố chủ quyền  Ngày 17-3-1991, tại Liên Xô đã diễn ra cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) và tạo lập chức vụ Tổng thống Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (nay là Liên bang Nga). Trong hai năm 1988-1990, toàn bộ 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô đã thông qua tuyên bố chủ quyền. Ban lãnh đạo của các nước cộng hòa nỗ lực kiểm soát các ngành kinh tế mũi nhọn địa phương, luôn từ chối nộp phần khấu trừ thuế vào ngân sách toàn liên bang. Trong khi đó, đa số các nước cộng hòa còn duy trì cơ chế thành viên mang tính hình thức trong thành phần Liên Xô. Mùa xuân năm 1990, tuyên bố độc lập và rút khỏi thành phần nhà nước liên bang có Litva (ngày 11-3), Latvia (ngày 4-5) và Estonia (ngày 8-5). Trước tình thế đó, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev đã đề xuất ký kết thỏa thuận liên bang mới, trong đó quyền của các nước cộng hòa sẽ được mở rộng căn bản (dự thảo Thỏa thuận được báo chí đăng tải ngày 25-11). Để tranh thủ sự ủng hộ, Gorbachev kiến nghị lên Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô, mà theo Hiến pháp, đây là cơ quan nhà nước cao nhất của Liên Xô. Phát biểu tại phiên Đại hội ngày 17-12-1990, Mikhail Gorbachev đề xuất “tổ chức trưng cầu dân ý trên toàn quốc, để mỗi người dân bỏ phiếu ủng hộ hoặc phản đối Liên minh các quốc gia có chủ quyền trên cơ sở liên bang”.

Quyết định tổ chức trưng cầu dân ý

Ngày 24-12-1990, Đại hội đại biểu nhân dân Liên Xô lần thứ IV, bằng cách biểu quyết ký danh, đã thông qua Nghị quyết về việc duy trì Liên bang cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) như một liên bang đổi mới gồm các nước cộng hòa có chủ quyền bình đẳng với 1697 phiếu thuận, 30 phiếu chống trong tổng số 1865 đại biểu tham dự. Chính quyền Armenia, Gruzia, Latvia, Litva, Moldavia và Estonia đã từ chối tham gia bỏ phiếu. Tuy nhiên, một số nước cộng hòa tự trị trong thành phần các quốc gia này vẫn tổ chức trưng cầu dân ý. Đặc biệt, ủng hộ việc duy trì Liên Xô có đa số áp đảo người dân Pridnestrov và Gagauzia, cũng như người dân Abkhazia và Nam Ossetia. Ngoài ra, một số địa phương ở các nước vùng Ban-tích và Moldavia đã tổ chức bỏ phiếu quy mô lớn. Kết quả, theo số liệu công bố của Ủy ban bầu cử Trung ương Liên Xô, cuộc trưng cầu dân ý tại Latvia có 436 nghìn người tham gia (dân số nước này theo kết quả điều tra năm 1989 là 2.680.000 người), tại Litva là 501 nghìn người tham gia (trong tổng số 3.690.000 dân), tại Moldavia là 701 nghìn người tham gia (trong tổng số 4.338.000 dân), còn tại Estonia là 222 nghìn người tham gia (trong tổng số 1.573.000 dân).

Lúc đó, danh sách công dân Liên Xô có quyền tham gia bỏ phiếu gồm 185.647.355 người, trong đó có 148.574.606 người đã tham gia bỏ phiếu trưng cầu dân ý (chiếm 80%). Ủng hộ việc duy trì Liên Xô có 113.512.812 cử tri (chiếm 76,4%), trong khi bỏ phiếu chống là 32.303.977 cử tri (chiếm 21,7%). Có tới 2.757.817 phiếu được công nhận là không hợp lệ (chiếm 1,9%). Trong số những nước cộng hòa thuộc Liên Xô, số người ủng hộ duy trì nhà nước Xô viết ở Turkmenistan là nhiều nhất (97,9% phiếu ủng hộ), trong khi ít nhất là ở Ukraine (70,2% phiếu). Còn tại Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga lúc đó có 71,3% cử tri ủng hộ duy trì nhà nước Xô viết.

Trưng cầu dân ý về việc tạo lập chức vụ Tổng thống

Cũng trong ngày 17-3-1991, tổ chức song song với cuộc trưng cầu dân ý toàn Liên Xô còn có việc bỏ phiếu về vấn đề “Theo bạn, CÓ hay KHÔNG nên tạo lập chức vụ Tổng thống Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga, do toàn dân bỏ phiếu bầu chọn ra?”. Tổng cộng danh sách có 101.776.550 cử tri, trong đó tham gia trưng cầu dân ý có 76.425.110 người (chiếm 75,09%). Ủng hộ việc tạo lập chức vụ Tổng thống nước cộng hòa này có 53.385.275 cử tri (chiếm 69,85%), trong khi 21.406.152 cử tri bỏ phiếu chống (chiếm 28,01%). Có tới 1.633.683 phiếu được công nhận là không hợp lệ. Ngày 24-4-1991, Hội đồng Tối cao Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga đã phê chuẩn kết quả trưng cầu dân ý và thông qua Luật Tổng thống Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga và Luật bầu cử Tổng thống Cộng hòa XHCN Xô viết Liên bang Nga. Ngày 24-5-1991, Hiến pháp năm 1978 còn hiệu lực khi đó đã được sửa đổi. Cuộc bầu cử Tổng thống đầu tiên của nước Nga diễn ra ngày 12-6-1991. Ông Boris Eltsin đã giành chiến thắng trong cuộc bầu cử này với 57,38% số phiếu ủng hộ. Nên duy trì, nhưng vẫn sụp đổ Nhân dịp 30 năm ngày diễn ra cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên bang Xô viết (17-3-1991/17-3-2021), mới đây trên trang dp.ru của Nga đăng bài viết của tác giả Andrey Tanner với nhan đề “30 năm cuộc trưng cầu dân ý năm 1991: Nên duy trì, không nên làm sụp đổ”. Tác giả bài báo viết, trong cuộc trưng cầu dân ý về việc duy trì Liên bang Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết (Liên Xô) 30 năm trước, phần thắng đã nghiêng về những người ủng hộ Nhà nước liên bang thống nhất. Tuy nhiên chỉ vài tháng sau đó, Liên Xô đã sụp đổ. Cuộc trưng cầu dân ý toàn quốc đầu tiên và duy nhất trong lịch sử Xô viết đã kết thúc thắng lợi cho những người tổ chức sự kiện này, nó hoàn toàn không có tác dụng gì. Vậy chuyện này đã diễn ra như thế nào? Tại sao chính quyền khi đó không dùng kết quả cuộc trưng cầu để tiếp tục duy trì Nhà nước liên bang? Bởi vì, khi đó không có kiểu biểu tình như Maidan, không Internet, không có các công cụ như “cách mạng cam” nhằm lật đổ chế độ như ngày nay. Ngày 17-3-1991, trên phiếu trưng cầu dân ý ghi câu hỏi là: “Theo bạn, Có hay Không nên duy trì Liên Xô như một liên bang đổi mới gồm những nước cộng hòa có chủ quyền bình đẳng, được đảm bảo đầy đủ quyền và tự do của con người thuộc mọi dân tộc?”.

Cuộc trưng cầu dân ý ngày 17-3-1991 ở Liên Xô. Ảnh tư liệu: TASS

Có hai phương án trả lời là “Có” hoặc "Không". Trong số 185,6 triệu công dân được quyền đi bỏ phiếu, có 148,5 triệu người đã tham gia trưng cầu. 113,5 triệu cử tri (76,43%) bỏ phiếu tán thành, tức là ủng hộ tiếp tục duy trì Nhà nước Xô viết. Đến nay, kết quả cuộc trưng cầu dân ý này dường như vẫn là kết quả duy nhất có thể. Làm sao có thể khác đi được, bởi đằng sau kết quả này là cả một bộ máy quan liêu, khi đó chỉ có hai kênh truyền hình trung ương phục vụ gần như toàn bộ người dân trong nước, rồi tất cả các tờ báo hàng đầu khác? Đã không thể làm được vậy, nếu không có sự gian manh trong việc diễn đạt câu hỏi trưng cầu dân ý. Bởi lẽ, Liên Xô lúc đó được nhiều người liên tưởng không chỉ đến sự hùng mạnh của một cường quốc, mà còn đến sự tập quyền cao độ. Сòn vấn đề chủ quyền thì được quan niệm đó là độc lập và tự do. Trên thực tế, việc ngừng lại lúc này là không thể. Vậy khi đó người ta cần cuộc trưng cầu dân ý này để làm gì và tại sao mọi thứ lại diễn ra như vậy? Sự kiện này đã được quyết định tổ chức sau khi diễn ra cái gọi là “thông qua tuyên bố chủ quyền”. Từ tháng 11-1988 đến tháng 12-1990, quốc hội tất cả 15 nước cộng hòa thuộc Liên Xô đều đã thông qua tuyên bố chủ quyền của mình. Lúc này, Liên bang Nga cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Vì vậy, có thể hiểu rằng, Liên bang Xô viết về cơ bản là không thể cứu vãn được nữa. Cuộc trưng cầu dân ý phải được hợp thức hóa bằng một cách thức khác nào đó, hoặc đơn giản chỉ tìm cách kéo dài thời gian. Trong trường hợp buộc phải quyết định, thì đây là cái cớ để lấy ý kiến nhân dân nhằm thanh minh cho việc làm của mình. Các nước cộng hòa vùng Ban-tích, cũng như Armenia, Gruzia và Azerbaidjan đã từ chối tổ chức cuộc trưng cầu dân ý này. Trên lãnh thổ những nước này, việc bỏ phiếu chỉ diễn ra tại các đơn vị quân đội, doanh nghiệp hoặc ở những nơi có đa số người Nga sinh sống. Các ủy ban bầu cử khu vực và địa phương chỉ được lập ra tại 9 nước cộng hòa. Tuy nhiên, tại đó trưng cầu dân ý diễn ra với câu hỏi chính đã được điều chỉnh (như tại Kazakhstan thì nhấn mạnh đến sự bình đẳng giữa các quốc gia có chủ quyền), hoặc thêm những câu hỏi bổ sung. Chẳng hạn như tại Nga, trên lá phiếu trưng cầu dân ý có thêm câu hỏi về việc áp dụng chức vụ Tổng thống của nước Cộng hòa XHCN Liên bang Xô viết Nga. Vậy nước Nga có chức vụ Tổng thống để làm gì, nếu như không chuẩn bị tách ra khỏi thành phần Liên Xô? Một sự giả tạo Người Mátxcơva còn trả lời bổ sung câu hỏi về việc tổ chức bầu trực tiếp chức thị trưởng Thủ đô. Có nghĩa là, họ cũng muốn tự quyết định bộ máy chính quyền của mình. Tại Ukraine, trên lá phiếu có câu hỏi thứ hai: “Bạn có đồng ý việc Ukraine nằm trong thành phần Liên bang các quốc gia Xô viết có chủ quyền trên cơ sở Tuyên bố chủ quyền quốc gia Ukraine không?” Và kết quả cho câu hỏi thứ hai lại cao hơn câu thứ nhất (là câu hỏi chung cho toàn liên bang). Tháng 12-1990, Hội đồng Tối cao Liên Xô đã tán thành dự thảo Thỏa thuận liên bang Xô viết mới thay thế bản có hiệu lực từ năm 1922 do Mikhail Gorbachev đề xuất. Ngày 15-8-1991 trên báo “Sự thật” đăng bản hiệu đính cuối cùng của Thỏa thuận về Liên bang các quốc gia có chủ quyền. Bản hiệu đính này nói rõ: “Các quốc gia hợp thành Liên bang có đầy đủ toàn quyền chính trị, tự quyết định bộ máy nhà nước của mình, hệ thống cơ quan chính quyền và cơ quan quản lý”. Hóa ra, cuộc trưng cầu dân ý ngay từ đầu đã là một sự giả tạo. Tương lai của Liên bang Xô viết đã được phán định trước. Cuộc trưng cầu được tổ chức không phải vì người dân muốn tự do và dân chủ, mà là để quản lý bằng một cách khác. Giới tinh hoa Liên Xô đã nhận thấy khả năng có thể nhận các nguồn lực về làm tài sản cá nhân (những đồng tiền hợp pháp) và thừa kế lại toàn bộ của cải đó. Lúc này không ai có thể ngăn cản được việc này. Ngay cả giới tinh hoa cấp vùng (cấp các nước cộng hòa), vốn đã nhận về mình toàn bộ cả quốc gia khi Liên Xô tan rã, cũng sẵn sàng làm việc này. Ngày nay, khi đề cập đến việc Liên Xô sụp đổ, có người thì nói đến sự phản bội, người thì nói đến sự ngu dốt, còn có người thì hoài niệm về một thời. Đương kim Tổng thống Nga từng gọi sự tan rã của Liên Xô là thảm họa địa chính trị lớn nhất trong thế kỷ XX. Tuy nhiên, vẫn còn một kết luận mà hiện chưa được lưu ý đến nhiều. Kết luận này đề cập đến quan hệ giữa giới tinh hoa và xã hội; nó càng tầm thường bao nhiêu, thì lại càng cho thấy sự trơ tráo bấy nhiêu. Bất kỳ sự cải tổ xã hội, kinh tế hay chính trị nào, trong đó có cải cách hay cách mạng, đều được giới tinh hoa tiến hành (hoặc sử dụng) vì lợi ích của chính họ, mà chẳng hề vì lợi ích của ai khác.

QUỐC KHÁNH (Theo TASS, dp.ru) Nguồn: qdnd.vn