TTCT - Ở khắp nơi trên thế giới, chi phí để theo đuổi giáo dục bậc cao ngày càng tăng, đến mức nhiều người phải cân nhắc xem có đáng bỏ ra số tiền khổng lồ để học đại học, trong khi tương lai sau đó vô cùng bấp bênh hay không.
TTCT - Ở khắp nơi trên thế giới, chi phí để theo đuổi giáo dục bậc cao ngày càng tăng, đến mức nhiều người phải cân nhắc xem có đáng bỏ ra số tiền khổng lồ để học đại học, trong khi tương lai sau đó vô cùng bấp bênh hay không.
Đã có thời nhiều đại học công ở Mỹ miễn học phí. Những trường còn lại cũng thu học phí rất thấp khi trợ cấp từ các bang đã trả phần lớn cho chi phí vận hành trường. Tiến sĩ Dominique Baker tại Đại học Southern Methodist (Mỹ) cho biết đến khoảng những năm 1960, các chính sách bắt đầu thay đổi khi số lượng sinh viên ngày một tăng (thế hệ Baby Boomer đến tuổi vào đại học), dẫn tới việc duy trì và mở rộng khả năng tiếp cận đại học miễn phí gặp nhiều thách thức.
Bấy giờ, chính quyền thiết kế một cơ chế mới: các cơ sở giáo dục đại học có thể định giá học phí tùy ý, miễn là họ cung cấp đủ hỗ trợ cho sinh viên eo hẹp tài chính. Hiểu một cách nôm na, các đại học có thể thu học phí cao cho tất cả sinh viên, rồi cấp học bổng hỗ trợ cho sinh viên khó khăn. Mô hình học phí và hỗ trợ tài chính đi theo "cơ chế thị trường" này vẫn đang được áp dụng ở nhiều đại học Mỹ hiện nay.
Qua nhiều năm, tiến sĩ Dominique Baker nhận thấy cách làm trên có điểm yếu ở chỗ chỉ hiệu quả ở các trường đại học tên tuổi hoặc có các quỹ đầu tư lớn. Số trường này lại chiếm tỉ lệ nhỏ trong tổng các đại học ở Mỹ.
Chẳng hạn nhóm trường tinh hoa Ivy League có học phí cao, nhưng danh tiếng và chất lượng của trường giúp họ kéo về rất nhiều sinh viên đủ tài chính để "trả đúng, trả đủ". Sau đó, họ dùng một phần tiền đóng học phí từ những sinh viên nhà giàu để trợ cấp cho các bạn có điều kiện tài chính kém hơn.
Tuy nhiên, chỉ có đại học tên tuổi có thể thu hút đủ sinh viên giàu sẵn sàng trả đủ tiền học dù đắt đỏ đến đâu. Trong số khoảng 2.600 đại học đào tạo hệ 4 năm ở Mỹ, chưa đến 100 trường có thể đáp ứng mọi nhu cầu hỗ trợ tài chính của sinh viên khó khăn nhờ việc thu đủ tiền từ các sinh viên giàu.
Khoảng 2.500 trường đại học không thể đạt tới mức cân bằng lý tưởng này. Cái khó của những trường này là "anh không thể thu học phí như giá của một chiếc xe sang Porsche khi mọi người đang thấy chất lượng của trường chỉ như một chiếc xe Honda" - James
S. Murphy, chuyên gia phân tích chính sách giáo dục bậc cao của Tổ chức Education Reform Now, nói trong bài viết cho trang Business Insider.
Đây rốt cuộc cũng chính là nút thắt của câu chuyện học phí cao. Năm 2022, 89% số sinh viên theo học trường liberal art (giáo dục khai phóng) có thể tự trả hoàn toàn học phí đều học tại một trường thuộc top 50 của U.S. News & World Report. Các trường còn lại không đủ sức hút cho các sinh viên giàu có. Đồng nghĩa, các sinh viên dù được nhận học nhưng sẽ nhận được ít hỗ trợ hơn, dẫn tới việc họ phải vay nợ nhiều hơn để học đại học.
Cắn răng đóng học phí song mức lương mà sinh viên có thể kiếm được sau khi tốt nghiệp đại học cũng không thể theo kịp với chi phí đại học. Báo cáo năm 2019 từ Trung tâm nghiên cứu Pew cho thấy thu nhập của người trẻ có trình độ đại học gần như không biến động suốt 50 năm qua.
Trong khi đó, dữ liệu gần đây từ Cơ quan Giáo dục đại học Mỹ chỉ ra trong bốn năm đầu sau khi tốt nghiệp, có đến 1/3 số sinh viên kiếm được ít hơn 40.000 USD, thấp hơn mức lương trung bình 44.356 USD mà lao động chỉ có bằng tốt nghiệp trung học kiếm được.
Nếu cộng thêm số nợ trung bình trên vai sinh viên 33.500 USD sau khi rời trường đại học, nhiều cử nhân dường như sẽ phải mất thêm nhiều năm nữa mới đuổi kịp tài chính với những bạn đồng trang lứa không có bằng cấp.
Chẳng trách Gen Z bắt đầu nhìn đại học với con mắt khác. Một khảo sát năm 2022 của hãng Morning Consult cho thấy chỉ 41% trong số bạn trẻ Gen Z tin tưởng các trường đại học sẽ tạo thêm giá trị cho họ, tỉ lệ thấp nhất trước nay. Trước đó, khảo sát năm 2014 của Pew chỉ ra có đến 63% người trẻ thuộc thế hệ Y (1981 - 1996) đánh giá cao giá trị của việc học đại học.
Có bao giờ bạn thắc mắc, muối biển đến từ đâu? Diện tích đất liền trên trái đất chỉ chiếm khoảng 29%, trong khi diện tích nước chiếm tới 71%. 97% là nước mặn chỉ có 3% là nước ngọt.
Đại dương trên Trái đất chứa khoảng 3,5% thành phần là muối. Phần lớn lượng muối này đến từ đất liền của chúng ta.
Nếu loại bỏ hết tất cả muối ra khỏi nước, chúng ta sẽ thu được khoảng 50 triệu tấn muối. Lượng muối khổng lồ này có thể tạo thành 153 m bao phủ xung quanh Trái đất, tương đương với chiều cao của tòa nhà 40 tầng.
Một phần muối xuất phát từ miệng núi lửa hoặc đá ở đáy biển. Tuy nhiên, phần lớn muôi có nguồn gốc trên đất liền. Để hiểu rõ hơn, chúng ta xem xét chu trình của nước trong tự nhiên. Nước mưa rơi xuống hòa tan CO2 trong khí quyển trên trời rơi xuống mặt đất.
Sau đó, nước mưa chảy trên mặt đất để tiếp cận với đường thoát nước trong khu vực. Tính axit của nước mưa phá vỡ đá, thu giữ ion trong đá và mang chúng ra biển. Khoảng 90% các ion này là natri hoặc clo. Hai loại ion này kết hợp với nhau tạo thành muối.
Nước ngọt chảy tới đại dương bị bốc hơi, tạo thành những đám mây. Tuy nhiên, natri, clo và nhiều ion khác vẫn ở lại. Chúng tích lũy theo thời gian, hình thành nên vị mặn đặc trưng của nước biển. Miệng phun thủy nhiệt dưới đáy đại dương tiếp tục bổ sung thêm nhiều khoáng chất hòa tan (bao gồm cả natri và clo) đóng góp vào độ mặn tự nhiên của biển.
Lượng muối tích tụ ở các dòng sông rất nhỏ, ít hơn 1/200 lượng natri clorua tồn tại trong nước biển. Độ mặn của nước biển cũng khác nhau trên khắp Trái Đất.
Nồng độ muối càng cao, điểm đóng băng càng thấp, vì vậy không có gì đáng ngạc nhiên. Vào mùa đông, nước trong vắt đóng băng, nhưng biển vẫn chảy. Chỉ có nước biển có nhiệt độ rất thấp và nồng độ muối thấp mới tạo thành những lớp băng mỏng.
Mọi thắc mắc và góp ý Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
CÔNG TY TNHH CN & PT ATH VIỆT NAM
Hotline: 0986 504 869 – 0986 066 244
Email: [email protected]
Link Fanpage: https://www.facebook.com/hoachatximaATH.vn/
Chia sẻ về vấn đề này, tiến sĩ, nhà giáo dục Giáp Văn Dương, từng làm việc và nghiên cứu tại ĐH Liverpool (Anh), ĐH Quốc gia Singapore, cho biết: “Ngày xưa, tôi đi du học vì muốn biết thế giới bên ngoài học tập, nghiên cứu, vận hành thế nào. Tôi cũng muốn trải nghiệm một xã hội, nền văn hóa mới. Nhưng đó là khi tôi đã ra trường, làm giảng viên đại học. Ngày nay, có thể các bạn trẻ cũng muốn như vậy, nhưng có lẽ nhẹ nhàng hơn, như: muốn sống, đi chơi, trải nghiệm một nền văn hóa mới. Đặc biệt, muốn được học tập ở một môi trường tốt hơn. Việc học hỏi và khám phá những điều mới mẻ của thế giới bên ngoài, dù dưới bất cứ hình thức nào đều rất chính đáng, cần tôn trọng và khuyến khích”.
Về những điều kiện căn bản để đi du học, tiến sĩ Dương chia sẻ rằng đầu tiên là phải vượt qua kỳ kiểm tra nhập học, có học bổng hoặc tiền để đóng học phí và trang trải sinh hoạt. Trường càng tốt thì đầu vào càng khó, và học phí càng cao. Nước càng phát triển thì chi phí học tập và sinh sống càng đắt đỏ.
“Tuy nhiên, đó là các điều kiện nhìn từ bề ngoài. Còn bề sâu thì nên đi du học khi có một sự khát khao tri thức, hoặc mong muốn trải nghiệm cuộc sống mới. Thậm chí, nhiều người đi du học vì thích kết hợp đi du lịch ở nhiều nơi. Không ai là giống ai. Nhưng nếu biết rõ mình đi du học để làm gì thì vẫn tốt hơn”, tiến sĩ Dương cho hay.
Trả lời cho thắc mắc, có phải đi du học là giỏi? Tiến sĩ Dương phân tích: “Theo tôi, không nên đánh giá đơn giản đi du học là giỏi, hoặc chưa chắc đã giỏi. Thay vào đó, hãy tôn trọng lựa chọn học tập của mỗi người. Nếu muốn và đủ điều kiện thì nên đi du học. Còn nếu không, thì học trong nước cũng tốt. Điều quan trọng là sự trưởng thành trong suốt quá trình học. Mong muốn học tập là điều thiêng liêng và lựa chọn học ở đâu là tự do cá nhân, cần tôn trọng”.
Tuy nhiên, tiến sĩ Dương cũng lưu ý rằng: “Do khác biệt về văn hóa và điều kiện làm việc, người học giỏi, thậm chí làm giỏi khi ở nước ngoài, chưa chắc khi về nước đã hội nhập được và làm việc tốt. Nếu việc đó xảy ra, thì đó là điều đáng tiếc”.