Cơ cấu hệ thống giáo dục của một nước biểu thị các tầng bậc của hệ thống giáo dục và các quy định về trình độ văn bằng liên quan. Thông lệ quốc tế về mô tả các cấp trình độ trong hệ thống giáo dục được thể hiện trong Bảng phân loại tiêu chuẩn giáo dục quốc tế (International Standard Classification of Education - ISCED) của Viện Thống kê UNESCO (UNESCO Institute of Statistics) phiên bản 2011 [1]. Đối với Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyết định 1981/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ đưa ra các quy định mới[2] về khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
Cơ cấu hệ thống giáo dục của một nước biểu thị các tầng bậc của hệ thống giáo dục và các quy định về trình độ văn bằng liên quan. Thông lệ quốc tế về mô tả các cấp trình độ trong hệ thống giáo dục được thể hiện trong Bảng phân loại tiêu chuẩn giáo dục quốc tế (International Standard Classification of Education - ISCED) của Viện Thống kê UNESCO (UNESCO Institute of Statistics) phiên bản 2011 [1]. Đối với Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam các quyết định 1981/QĐ-TTg ngày 18 tháng 10 năm 2016 của Thủ tướng Chính phủ đưa ra các quy định mới[2] về khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.
Song song với quyết định 1981/QĐ-TTg, quyết định 1982/QĐ-TTg mô tả khung trình độ quốc gia. Văn bản quy định 8 bậc trình độ quốc gia: Sơ cấp I, Sơ cấp II, Sơ cấp III, Trung cấp, Cao đẳng, Đại học, Thạc sĩ và Tiến sĩ. Chuẩn đầu ra và khối lượng học tập tối thiểu được quy định cho từng bậc đào tạo. Người học hoàn thành chương trình đào tạo đáp ứng yêu cầu của chuẩn đầu ra đối với từng bậc học thì được cấp "chứng chỉ" đối với 3 bậc đầu tiên, và "bằng tốt nghiệp" đối với bậc 4, các "bằng cao đẳng", "bằng đại học", "bằng thạc sĩ", "bằng tiến sĩ" tương ứng đối với 4 bậc cuối. Đơn vị khối lượng học tập được tính bằng tín chỉ. Văn bản không nêu định nghĩa đơn vị tín chỉ, nhưng nếu giả thiết "tín chỉ" được định nghĩa như ở "Quy chế Đào tạo đại học và cao đẳng hệ chính quy theo hệ thống tín chỉ" ở Quyết định số 43/2007/QĐ-BGDĐT ngày 15/8/2007 thì "Một tín chỉ được quy định bằng 15 tiết học lý thuyết; 30 - 45 tiết thực hành, thí nghiệm hoặc thảo luận; 45 - 90 giờ thực tập tại cơ sở; 45 - 60 giờ làm tiểu luận, bài tập lớn hoặc đồ án, khoá luận tốt nghiệp" và "Đối với những học phần lý thuyết hoặc thực hành, thí nghiệm, để tiếp thu được một tín chỉ sinh viên phải dành ít nhất 30 giờ chuẩn bị cá nhân". Định nghĩa tín chỉ này tương tự như định mức tín chỉ theo học kỳ 15 tuần (semester) của Mỹ [3]. Theo định mức này, một năm học tương đương 30 tín chỉ, do đó khối lượng học tập bậc đại học được quy định 120 tín chỉ là tương đương với 4 năm học.
Theo một số chuyên gia về giáo dục, cơ cấu hệ thống mới cần thể hiện được yêu cầu "liên thông" giữa hai luồng giáo dục học thuật và giáo dục nghề nghiệp, chẳng hạn tầng 5 nên là "trung học phổ thông" và "trung học nghề" chứ không phải là "trung cấp", vì chương trình "trung cấp" chỉ lưu ý đến độ tay nghề, không lưu ý về học vấn, do đó người học tốt nghiệp bậc học này không đủ trình độ học vấn để chuyển lên bậc cao đẳng hoặc đại học. Ngoài ra, luồng giáo dục nghề nghiệp nếu thiết kế lên đến tận bậc trên cùng (tiến sĩ) sẽ tốt hơn, vì có thể sắp xếp ở bậc này các bằng cấp theo hướng thực hành cao nhất (chẳng hạn bằng Chuyên khoa 2 trong đào tạo y học).[1].
Anh Quốc được biết đến là một đất nước có nền giáo dục tiên tiến. Tại đây có những trường lâu đời, có uy tín nhất trên thế giới và cũng là nơi có nhiều cải cách về giáo dục nhất trên thế giới. Bằng do các trường Anh quốc cấp được công nhận trên toàn thế giới.
Anh Quốc được biết đến là một đất nước có nền giáo dục tiên tiến. Tại đây có những trường lâu đời, có uy tín nhất trên thế giới và cũng là nơi có nhiều cải cách về giáo dục nhất trên thế giới. Bằng do các trường Anh quốc cấp được công nhận trên toàn thế giới. Để rõ hơn về nền giáo dục tại Anh Quốc xin được giới thiệu các bậc học tại Anh như sau:
Bắt đầu từ 5 tuổi và kết thúc vào lúc học sinh 11 tuổi.
Học sinh bước vào trung học năm 11 tuổi, và học tại trường trong 5 năm. Học sinh trung học sẽ được học chuyên sâu hơn các môn học tại trường tiểu học. GCSEs (General Certificate of Secondary Education) là một bộ chứng chỉ tốt nghiệp các môn ở trung học mà học sinh thường chọn học và thi ở lứa tuổi 14- 16. Chứng chỉ GCSE của từng môn có thang điểm từ A* là cao nhất đến G là thấp nhất.
Sau khi đã lấy chứng chỉ GCSE với điểm số từ A* đến C ở 5 môn học trở lên, học sinh tiếp tục học lên chương trình Dự bị Đại học. Có 3 chương trình cho các em lựa chọn.
Yêu cầu đầu vào cho sinh viên quốc tế tiếng Anh thông thạo (tối thiểu IELTS 5.5)
Dành cho học sinh từ 18 tuổi trở lên. Chương trình kéo dài 3 – 4 năm, kết thúc chương trình, học sinh được cấp bằng Cử nhân (ordinary bachelor) hay bằng cử nhân danh dự (honours bachelor degree). Các năm học được chia thành hai đến ba học kỳ.
Yêu cầu đầu vào cho sinh viên quốc tế bao gồm tiếng Anh thông thạo (tối thiểu IELTS 6.0), một năm học bổ sung cho bậc học phổ thông, còn gọi là năm Dự bị Đại học, hay đạt điểm cao các môn thi của chương trình “Chứng Chỉ A level”
Bạn có thể bắt đầu bằng khóa diploma sau đại học (PG Dip), sau đó chuyển sang khoá Thạc sỹ, hoặc bắt đầu bằng khóa MRes (thạc sĩ về nghiên cứu), sau đó có thể học tiếp lên khoá PhD (tiến sĩ).
Thời gian học kéo dài từ một năm cho đến bốn năm, tùy vào khóa học bạn chọn:
Cùng chiêm ngưỡng những hình ảnh của 15 trường Đại học đẹp nhất Anh quốc